Đề nghị chuyển mục đích rừng làm 2 hồ chứa nước

Thời gian cập nhật: 03/11/2020

(Tin tức thời sự) - Chính phủ báo cáo Quốc hội về đề nghị chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng để thực hiện hai dự án hồ chứa nước ở Ninh Thuận và Nghệ An.

Chuyển mục đích hơn 400ha rừng phòng hộ

Tiếp tục đợt 2 của kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIV, ngày 2/11, Quốc hội đã họp phiên toàn thể tại hội trường, nghe báo cáo của Chính phủ về đề nghị chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng để thực hiện dự án Hồ chứa nước Sông Than, tỉnh Ninh Thuận và dự án Hồ chứa nước Bản Mồng, tỉnh Nghệ An.

Thừa ủy quyền Thủ tướng Chính phủ, báo cáo tại phiên họp, Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Nguyễn Xuân Cường cho biết, Dự án hồ chứa nước sông Than được UBND tỉnh Ninh Thuận phê duyệt lần đầu tại Quyết định số 971/QĐ-UBND ngày 14/5/2010 với tổng mức đầu tư 716,587 tỷ đồng; diện tích sử dụng đất 801,15 ha nhưng dự án phải tạm dừng do khó khăn về nguồn vốn.

Năm 2016, do tình hình hạn hán xảy ra nghiêm trọng, nhu cầu cấp bách của việc chống hạn, dự án được đưa vào bố trí kế hoạch vốn trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2017-2020. Năm 2017, tỉnh Ninh Thuận phê duyệt điều chỉnh dự án đầu tư với tổng mức đầu tư 855 tỷ đồng.

Mục tiêu của dự án: Cấp nước tưới cho 4.500 ha đất canh tác; cấp nước sinh hoạt cho khoảng 20.000 hộ dân vùng hạ lưu, cấp 24 triệu m3/năm cho các ngành kinh tế khác; cấp nước bổ sung cho các hồ chứa nước Lanh Ra, Tà Ranh và Bầu Zôn, cắt giảm lũ cho khu vực hạ du và tình trạng ngập úng.

Dự án được khởi công xây dựng vào tháng 7/2018 đến nay đã triển khai xây dựng được khoảng 35% khối lượng công việc.

Dự án có phát sinh tiêu chí quan trọng quốc gia do có sử dụng 100,63 ha rừng phòng hộ đầu nguồn. Vì vậy, Chính phủ đã có báo cáo trình Quốc hội tại kỳ họp 10 về tình hình thực hiện dự án là tuân thủ nghiêm túc quy định của pháp luật về đầu tư công.

Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường khẳng định, việc Chính phủ đề nghị Quốc hội xem xét, quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng 100,63 ha rừng phòng hộ để thực hiện dự án là đúng quy định; vị trí rừng phải chuyển đổi của dự án là bắt buộc để bảo đảm hiệu quả đầu tư công trình.

De nghi chuyen muc dich rung lam 2 ho chua nuoc
Quốc hội nghe báo cáo về đề nghị chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng để thực hiện dự án Hồ chứa nước Sông Than, tỉnh Ninh Thuận và dự án Hồ chứa nước Bản Mồng, tỉnh Nghệ An. Ảnh: Cổng TTĐT Quốc hội

Về trồng rừng thay thế, dự án đã có phương án trồng rừng thay thế được UBND tỉnh Ninh Thuận phê duyệt tại Quyết định số 2244 năm 2018; đến nay, UBND tỉnh Ninh Thuận đã chỉ đạo việc trồng rừng thay thế với diện tích 595 ha. Ngoài ra, UBND tỉnh Ninh Thuận cam kết “sau khi được Quốc hội quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác để thực hiện Dự án hồ chứa nước sông Than, sẽ phê duyệt kinh phí trồng rừng thay thế bổ sung theo quy định của Luật Lâm nghiệp”.

Chính phủ đề nghị Quốc hội xem xét, quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng 431,76 ha rừng (gồm rừng phòng hộ 100,63 ha; rừng sản xuất 309,48 ha; diện tích đưa ra ngoài quy hoạch 3 loại rừng 21,65 ha) để thực hiện Dự án hồ chứa nước sông Than, tỉnh Ninh Thuận.

Dự án hồ chứa nước Bản Mồng được Chính phủ cho phép đầu tư tại Văn bản số 154/TTg-NN ngày 20/01/2006; Bộ NN-PTNT phê duyệt dự án đầu tư năm 2009 và được khởi công năm 2010 nhưng đến năm 2011, dự án tạm dừng do Chỉ thị số 1792/CT-TTg.

Năm 2017, dự án được bố trí vốn trở lại trong trung hạn 2016-2020 để tiếp tục thực hiện và được Chính phủ cho phép phân kỳ đầu tư thành 2 giai đoạn. Giai đoạn I với tổng mức đầu tư là 4.455 tỷ đồng (vốn trái phiếu Chính phủ: 3.744 tỷ đồng; vốn doanh nghiệp: 711 tỷ đồng).

Mục tiêu của dự án: Cấp nước cho sản xuất nông nghiệp (tưới 18.871 ha), cấp nước cho công nghiệp, dân sinh; bổ sung nước về mùa kiệt cho sông Cả với lưu lượng 22 m3/s và cho 2 hệ thống thủy lợi lớn ở hạ du là Nam và Bắc Nghệ An; kết hợp phát điện (45 MW); tích nước phòng lũ, giảm lũ cho hạ du sông Hiếu; phục vụ phát triển công nghiệp, du lịch.

Đến nay, dự án đã triển khai xây dựng được khoảng 90% khối lượng công việc; lũy kế giải ngân đến nay đạt 83% và dự kiến đến cuối năm 2020 cơ bản hoàn thành giai đoạn I.

Dự án có phát sinh tiêu chí quan trọng quốc gia do có sử dụng 312,95 ha rừng phòng hộ đầu nguồn. Vì vậy, Chính phủ đã có báo cáo số 462/BC-CP ngày 5/10/2020 để trình Quốc hội tại kỳ họp 10 về tình hình thực hiện dự án là tuân thủ nghiêm túc quy định của pháp luật về đầu tư công.

Về chuyển mục đích sử dụng rừng của dự án, đã thực hiện nghiêm túc các quy định pháp luật về hồ sơ, trình tự thủ tục chuyển mục đích sử dụng rừng được thực hiện theo quy định của Luật Lâm nghiệp và Nghị định 83/2020/NĐ-CP. Theo báo cáo của UBND tỉnh Nghệ An, UBND tỉnh Thanh Hóa diện tích rừng tự nhiên phải chuyển đổi là 662,55 ha đều thuộc loại rừng nghèo, nghèo kiệt; vị trí rừng tự nhiên phải chuyển đổi của dự án là bắt buộc để bảo đảm hiệu quả đầu tư công trình.

Về trồng rừng thay thế để thực hiện dự án: Các tỉnh Nghệ An, tỉnh Thanh Hóa là các tỉnh có diện tích rừng lớn, nếu được phép chuyển đổi diện tích rừng để thực hiện dự án thì độ che phủ rừng của Thanh Hóa có giảm 0,05%, Nghệ An có giảm 0,03% nhưng vẫn ở mức cao so với toàn quốc (Thanh Hóa là 53,35%, Nghệ An là 57,7%). Vì vậy, trong hồ sơ dự án, các tỉnh đều xây dựng phương án trồng rừng thay thế bằng việc nộp tiền vào Quỹ bảo vệ và phát triển rừng để trồng rừng tại địa phương, đã tuân thủ nghiêm túc, đáp ứng các quy định của pháp luật.

Chính phủ đề nghị Quốc hội xem xét quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng 1.131,22 ha đất rừng trên địa bàn hai tỉnh Nghệ An (544,77 ha) và Thanh Hóa (586,45 ha), trong đó: 312,95 ha rừng phòng hộ, 661,08 ha rừng sản xuất và 157,19 ha rừng ngoài quy hoạch lâm nghiệp để thực hiện Dự án hồ chứa nước Bản Mồng, tỉnh Nghệ An.

Báo cáo thẩm tra trước Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Phan Xuân Dũng cho biết, Ủy ban cơ bản tán thành các nội dung về đề nghị chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng để thực hiện dự án Hồ chứa nước Sông Than, tỉnh Ninh Thuận và dự án Hồ chứa nước Bản Mồng, tỉnh Nghệ An như báo cáo của Chính phủ và bổ sung thêm như sau: Các Dự án này đều có thời gian thực hiện kéo dài do gặp khó khăn về bố trí nguồn vốn (Dự án Hồ Bản Mồng được phê duyệt chủ trương đầu tư năm 2006, dự án Hồ chứa nước sông Than năm 2010), đến năm 2011 đều bị tạm dừng hoặc dừng dãn tiến độ; đến khi thực hiện trở lại thì do thay đổi quy định của pháp luật về lâm nghiệp nên dự án phải chuyển mục đích sử dụng rừng phòng hộ đầu nguồn (Dự án hồ Sông Than phải chuyển 100,63 ha rừng phòng hộ đầu nguồn, Dự án Hồ Bản Mồng phải chuyển 312,95 ha).

Qua khảo sát thực tế và báo cáo tại các địa phương cho thấy, các tỉnh đều thực hiện tốt công tác trồng rừng, có tỷ lệ che phủ rừng cao; diện tích rừng phải chuyển đổi để thực hiện Dự án đều là những diện tích bắt buộc phải chuyển đổi để bảo đảm hiệu quả công trình; theo đánh giá của cơ quan chức năng thì chất lượng các diện rừng phải chuyển đổi đều là rừng nghèo, nghèo kiệt.

Do vậy, việc chuyển đổi mục đích sử dụng rừng để sớm đưa các dự án này sớm hoàn thành vào hoạt động là cần thiết và cấp bách. Tuy nhiên, đối với Dự án Hồ chứa nước sông Than cần giải thích rõ thêm về tính tối ưu của việc điều chỉnh, nâng dung tích hồ chứa; đối với hồ chứa nước Bản Mồng cần lưu ý sau khi được Quốc hội quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng thì cần cập nhật báo cáo đánh giá tác động môi trường của Dự án.

Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường đưa ra một số đề xuất, kiến nghị như sau: Đối với Dự án Hồ chứa nước sông Than, Tỉnh Ninh Thuận, Ủy ban thấy rằng, Dự án Hồ chứa nước sông Than thuộc Dự án đầu tư hạ tầng thiết yếu về thủy lợi cho khu vực thường xuyên bị hạn hán của tỉnh Ninh Thuận. Do thiếu nguồn vốn bố trí, phát sinh tiêu chí dự án quan trọng quốc gia nên thời gian thực hiện Dự án kéo dài; trong thực hiện có điều chỉnh về quy mô, công suất công trình nhưng các điều chỉnh này là cần thiết, phù hợp với thực tiễn và nâng cao hiệu quả KT-XH của Dự án. Hồ sơ Dự án tuân thủ đúng các quy định của pháp luật.

Dự án Dự án Hồ chứa nước Sông Than có liên quan đến việc khai thác, sử dụng một diện tích lớn tài nguyên thiên nhiên phục vụ phát triển KT-XH thuộc thẩm quyền Quốc hội xem xét quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng nên đề nghị Quốc hội cần giám sát chặt chẽ việc thực hiện để bảo đảm tiến độ, sớm đưa dự án vào hoạt động; bảo vệ môi trường và hiệu quả đầu tư ngân sách nhà nước.

Đối với Dự án Hồ chứa nước Bản Mồng, tỉnh Nghệ An, Ủy ban cho rằng, Dự án Hồ chứa nước Bản Mồng là Dự án đầu tư hạ tầng thiết yếu về thủy lợi cho khu vực phía Tây tỉnh Nghệ An và Nam Thanh Hóa. Hồ sơ Dự án trình Quốc hội đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật. Vì vậy, Ủy ban nhất trí cho rằng, Dự án đủ điều kiện trình Quốc hội xem xét, quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội Khóa XIV.

Dự án Hồ chứa nước Bản Mồng trong quá triển khai thực hiện do thiếu vốn bố trí, do phát sinh tiêu chí quan trọng quốc gia nên thời gian thực hiện phải kéo dài. Do vậy, đề nghị Chính phủ chỉ đạo các cơ quan rà soát các dự án đang thực hiện có nội dung liên quan đến chuyển mục đích sử dụng rừng, tránh tình trạng báo cáo chậm, ảnh hưởng đến việc thực hiện dự án và hiệu quả đầu tư.

Hiện Dự án Hồ chứa nước Bản Mồng đã hoàn thành gần 90% khối lượng công việc giai đoạn 1, các hạng mục công trình chính như: đập, cống, trạm bơm…đã hoàn thành. Do vậy, sau khi được Quốc hội quyết định cho phép chuyển mục đích sử dụng rừng, Chính phủ khẩn trương chỉ đạo: Bảo đảm nguồn lực thực hiện Dự án; đẩy nhanh tiến độ thi công để Dự án sớm đi vào hoạt động, phát huy hiệu quả KT-XH; Đề nghị Quốc hội cần giám sát việc thực hiện chuyển mục đích sử dụng rừng để bảo đảm hiệu quả thực hiện Dự án.

Trên cơ sở Báo cáo thẩm tra đề nghị xem xét, quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích sử dụng khác để thực hiện dự án hồ chứa nước sông Than, tỉnh Ninh Thuận; dự án Hồ chứa nước Bản Mồng, tỉnh Nghệ An, Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường kính trình Quốc hội xem xét, quyết định.

Thảo luận tại tổ, đại biểu Trần Kim Yến (TP.HCM) chia sẻ đồng tình với việc xây dựng hồ chứa nước ở các khu vực thường xuyên bị hạn hán.

Tuy nhiên ĐB Yến lo lắng khi đọc báo cáo thẩm tra về dự án Sông Than, trong đó Ủy ban Khoa học - công nghệ và môi trường có đề nghị: ‘‘UBND tỉnh Ninh Thuận bổ sung kinh phí phát sinh trồng rừng thay thế cho dự án’’.

Theo bà Yến, đề nghị trên có nghĩa là đến khi trình dự án này, các cơ quan liên quan chưa quan tâm đến kinh phí trồng rừng thay thế. ‘‘Như vậy đến khi được Quốc hội thông qua, liệu việc trồng rừng thay thế có được thực hiện nghiêm không?’’, báo Tuổi trẻ dẫn lời bà Yến đặt câu hỏi.

Dẫn ý kiến của GS Nguyễn Ngọc Lung - Viện trưởng Viện Quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng - nói về vai trò rất quan trọng của rừng tự nhiên so với rừng trồng, bà Yến nói dù báo cáo thẩm tra cho rằng diện tích rừng chuyển đổi làm dự án hồ chứa nước là rừng nghèo và nghèo kiệt nhưng như đánh giá, rừng trồng chỉ có tác dụng bằng 1/5 rừng tự nhiên trong việc giữ nước ngầm, hạn chế sạt lở...

Do vậy việc chuyển mục đích rừng để làm dự án sẽ phải cân nhắc kỹ. Bà Yến đề nghị nghiên cứu và làm rõ phương án trồng rừng thay thế đối với các dự án nói trên.

Minh Thái

Nguồn: Báo Đất Việt

Các bài viết liên quan

1
Bạn cần hỗ trợ?